Tìm kiếm tin tức
                    
          Đồng chí NGUYỄN MẠNH HÙNG
                   Chủ tịch UBND huyện 
Liên kết website

Chung nhan Tin Nhiem Mang

Tháng 7 ở đại ngàn A Lưới
Ngày cập nhật 23/07/2018

Vào tháng 7 hằng năm, khu rừng thiêng A Lưới (TT-Huế) giữa đại ngàn Trường Sơn lại đón chào những cựu chiến binh khắp mọi miền trở về viếng đồng chí, đồng đội đang được an nghỉ tại Nghĩa trang liệt sĩ (NTLS) A Lưới.

 

 

Ở NTLS A Lưới, nơi có khoảng 1.400 phần mộ chưa có thông tin liệt sĩ

Bài thơ "Hương thầm" ở NTLS

Lời bài hát "Hương thầm" của nhạc sĩ Hoàng Vũ được phổ từ bài thơ cùng tên của nữ thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn đã đi vào lòng công chúng với những ca từ rất tự nhiên, mộc mạc nhưng ẩn chứa bên trong là tình cảm nồng nàn, sâu lắng.

"...Cửa sổ hai nhà cuối phố.

Chẳng hiểu vì sao không khép bao giờ

Đôi bạn ngày xưa học chung một lớp

Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa

Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay

Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm

Bên ấy có người ngày mai ra trận

Bên ấy có người ngày mai đi xa...".

Chỉ khi đến với NTLS A Lưới, nhiều người mới biết rằng, bài thơ "Hương thầm" được sáng tác hơn 40 năm trước, không phải nữ thi sĩ viết để tặng cho một chàng trai nào đó mà là viết cho em trai mình-liệt sĩ Phan Hữu Khải. Chủ tịch UBND H.A Lưới Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, chính anh cũng rất bất ngờ và xúc động khi biết liệt sĩ Phan Hữu Khải đang an nghỉ tại NTLS A Lưới.  Anh Hùng kể, Phan Hữu Khải sinh năm 1953, quê ở Hà Nội. Vào những năm tháng chiến tranh ác liệt, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, anh cùng với đồng đội mình vào chiến trường miền Nam chiến đấu. Nơi anh đóng quân là trung đoàn 1, sư 324 Quân khu Trị Thiên. Năm 1972, khi tham gia trận đánh tại Đồi liệt sĩ, điểm cao 66, sân bay dã chiến của địch, đối diện dãy núi Ca Va (H.A Lưới, TT-Huế), anh đã hy sinh.

Bài thơ "Hương thầm" được nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn viết cho em trai trước lúc lên đường nhập ngũ vào chiến trường miền Nam. Bài thơ xuất phát từ câu chuyện có thật của người em trai với cô bạn học. Từ chiến trường, khi tình cờ nghe được người ngâm bài thơ của chị gái trên Đài Tiếng nói Việt Nam, anh Phan Hữu Khải viết thư về cho chị. Tuy nhiên, khi chưa kịp nhận thư hồi âm để biết rằng bài thơ đó chị gái sáng tác để tặng cho mình thì anh đã hy sinh. Năm 1984, bài thơ được nhạc sĩ Vũ Hoàng phổ nhạc và từ đó đi vào lòng người nghe mãi mãi cùng năm tháng. "Để tri ân các Anh hùng liệt sĩ H. A Lưới và đặc biệt là người em trai hy sinh trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cách đây gần 5 năm, gia đình nữ thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn đã tặng bia đá mang dòng chữ "Tưởng nhớ các liệt sĩ và em trai Phan Hữu Khải đang an nghỉ tại NTLS H. A Lưới". Trên bia đá với trọng lượng 22,5 tấn có khắc bài thơ "Hương thầm". Hôm gắn bia đá, ai chứng kiến cũng vô cùng xúc động"- một cựu chiến binh nhớ lại.

Bài thơ "Hương thầm" được khắc trên bia đá mà bà Phan Thị Thanh Nhàn dành tặng để tưởng nhớ các liệt sĩ 

và em trai Phan Hữu Khải đang an nghỉ tại NTLS A Lưới.

"Ngày mai thôi, Tổ quốc đọc tên mình..."

Ông Cao Việt Đức, nguyên sĩ quan đặc công, quê xã Đồng Kỳ (Yên Thế, Bắc Giang) nhập ngũ từ 1973, tham gia chiến đấu ở chiến trường Tây Nam. Sau giải phóng, ông về quê, đêm đêm, trong những cơn mơ chập chờn, ký ức chiến tranh hiện rõ mồn một: nơi ấy, cửa khẩu Xa Mát (H.A Lưới), 17 đồng đội của ông đã hy sinh trong một trận chiến đấu ác liệt... Thế là, ông lặng lẽ lên đường tìm đồng đội của mình. Ngoài giấy báo tử có ký hiệu, mã hiệu của đơn vị liệt sĩ là chìa khóa quan trọng, người cựu chiến binh này phải tìm hiểu cặn kẽ thêm về các trận đánh, đường tiến quân, giai đoạn chuyển quân của các binh chủng thì mới xác định được vị trí hoạt động của liệt sĩ trước lúc hy sinh.

13 năm qua, nay đã ngoài 70 tuổi, nhưng đêm nào ông cũng chong đèn đến 2 giờ sáng để tìm thông tin liệt sĩ. Mỗi ngày ông nhận từ 3- 5 lá thư nhờ đi tìm giúp mộ liệt sĩ. Đến nay, ông đã giúp tìm được khoảng 500 mộ liệt sĩ ở nhiều tỉnh, TP trong cả nước. Ông cũng đã gửi hơn 10 ngàn lá thư trao đổi với các gia đình khi ông nắm được thông tin dọc hành trình đi tìm mộ. "Không hiểu vì sao, trong hành trình tìm mộ, rừng thiêng A Lưới lại hết sức ám ảnh tôi"- ông nói. Những hài cốt liệt sĩ nằm trong sâu thẳm rừng xanh gần nửa thế kỷ, hy vọng tìm được ngày càng mong manh. Trong khi đó, đã có những người mẹ, người vợ mắt mờ, tóc bạc, không thể chờ được chồng, con trở về để lo hương khói... Bởi vậy, bao năm qua, ông cùng đồng đội trèo đèo, vượt dốc, vừa đi vừa phát cây mở đường, đêm ngủ lại trong rừng đầy muỗi, vắt...

Quá trình đi tìm mộ liệt sĩ, ông Đức cũng phát hiện nhiều ngôi mộ tập thể. Như khi đi tìm mộ liệt sĩ Nguyễn Đức Thuận, ông đã phát hiện ra nhiều liệt sĩ khác cùng hy sinh ngày 13-7-1969 tại đồi A Bia, an táng tại đồi A Rum, A Lưới. Ông đã tìm được khá nhiều hài cốt đồng đội và đưa về NTLS A Lưới. Hay năm 2016, gia đình liệt sĩ Đào Như Hiền (Vĩnh Bảo, Hải Phòng) đã 4 lần nhờ các nhà ngoại cảm tìm mộ và tất cả đều chỉ ra NTLS A Lưới nhưng khi giám định ADN đều không khớp. Khi đó ông Đức vừa đi xác minh 13 mộ liệt sĩ từ Lào về A Lưới. Rà soát hồ sơ, ông Đức biết liệt sĩ Đào Như Hiền thuộc đoàn 675 BKH (đơn vị Bộ Tư lệnh Công binh bổ sung cho Quân khu Trị-Thiên, đoàn A đánh Lào, đoàn B đánh Huế). Ngay lúc đó, ông xác định được 4 liệt sĩ: Đào Như Hiền, Trần Văn Kền, Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Văn Thi cùng hy sinh ngày 23-2-1968 được an táng ở xã Hồng Hạ, H. A Lưới. Sau khi giám định ADN, 4 hài cốt liệt sĩ đã về với vòng tay gia đình. Hành trình tìm mộ liệt sĩ Nguyễn Văn Ký quê ở Hải Hậu, Nam Định, bố của ông Nguyễn Văn Thông (công tác ở Hạt Kiểm lâm A Lưới) được nhiều người ví như một câu chuyện cổ tích. Nhiều năm đau đáu tìm kiếm, ông Thông không biết rằng bố ông đang yên nghỉ ở NTLS A Lưới, chỉ cách nhà 100m.

Trước nguyện vọng của hàng ngàn thân nhân liệt sĩ, đầu năm 2017, ông Cao Việt Đức cùng nhiều gia đình liệt sĩ gửi đơn xin Nhà nước giám định ADN tổng thể cho các liệt sĩ tại NTLS A Lưới và được Bộ LĐ-TB&XH đồng ý. Đại tá Nguyễn Hồng Sơn- Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh TT-Huế cho biết, hiện NTLS huyện có hơn 1.600 phần mộ liệt sĩ, trong đó có khoảng 1.400 ngôi mộ chưa có tên. Số mộ cần lấy mẫu hài cốt liệt sĩ để giám định là 1.160 mộ. Hiện, công tác này đã hoàn tất. Theo Đại tá Nguyễn Hồng Sơn, các liệt sĩ được quy tập về NTLS A Lưới chủ yếu là cán bộ, chiến sĩ của các đơn vị sư 324, binh trạm 31, 84, 48, 49, 42; trung đoàn 6, trung đoàn 9; trung đoàn 132 thông tin, trung đoàn 675 pháo phòng không, một số đại đội đặc công, hóa học, công binh của quân khu Trị- Thiên.

Trong quá trình lấy mẫu sinh phẩm, đoàn phát hiện nhiều hài cốt có di vật kèm theo, như cây bút Hồng Hà khắc hai chữ: HẠNH CƯ, phía dưới có khắc hình trái tim. Một hài cốt có lọ Penêxilin trong đó tên liệt sĩ Bùi Văn Vi, quê ở Ngọc Trăng, Ngọc Lặc, Thanh Hóa, hy sinh ngày 12-8-1973. Hay một hài cốt có đôi cặp tóc còn sáng bóng; có hài cốt kèm theo kèn Acmonica, đôi vòng tay của một nữ văn công... Đứng trước hàng ngàn ngôi mộ liệt sĩ chưa có tên ở NTLS A Lưới, nước mắt tuôn trào, cựu chiến binh Cao Việt Đức đọc một bài thơ, trong đó có những câu: "Cả nghĩa trang như một đài hoa/ Rạng rỡ vinh quang giữa đất trời A Lưới/ Mong muốn lắm, xin các anh hãy đợi/ Ngày mai thôi, Tổ quốc đọc tên mình"...

(Theo www.cadn.com.vn)

T.T
Các tin khác
Xem tin theo ngày