Tìm kiếm tin tức
                    
          Đồng chí NGUYỄN MẠNH HÙNG
                   Chủ tịch UBND huyện 
Liên kết website

Chung nhan Tin Nhiem Mang

Sống như người A Lưới
Ngày cập nhật 12/08/2014
Em Hồ Thị Ngọc Thư sẽ là một trong hai nhân chứng tham gia vụ kiện chất độc da cam

Thượng tuần tháng 8, chúng tôi ngược miền tây Thừa Thiên - Huế, lên A Lưới, rẻo đất chon von trên dãy Trường Sơn ngàn năm mây trắng. Tội ác chiến tranh đã biến A Lưới thành một địa điểm như "phòng thí nghiệm", từng ngày, từng giờ có thể nhận biết được sự tàn phá của đi-ô-xin.

Hàng ngàn người như rứa!

Chiều tà, nắng đong từng vạt cuối ngày vàng ruộm lên mái nhà văn hóa thôn Rơ Môm, xã Ðông Sơn, già trẻ ríu rít nói cười, loang vào đại ngàn dần sẫm lại. Cách đó độ trăm bước chân là nhà Quỳnh Ngân. Quỳnh Ngân họ Hồ, ở huyện A Lưới hầu như ai cũng họ Hồ. Giống như người Cơ Tu, thường gọi chữ Kon (ông) đứng trước, thì đồng bào Tà Ôi, Pa Cô gọi là Quỳnh.

Quỳnh Ngân gần 50 tuổi, nước da nâu bóng, quầng mắt thâm sì, vợ là Hồ Thị Liềng, kém chồng chín tuổi, người nhỏ thó, dựa lưng vào cột nhà, mắt mở to, nghe chồng tiếp khách. Quỳnh Ngân được Ban Dân tộc miền núi tỉnh tặng giấy khen người có uy tín ở xã Ðông Sơn và là hộ nghèo bậc nhất, nhì ở địa phương, thuộc diện nhiễm chất độc da cam.

Túng bấn và đớn đau vì đi-ô-xin, nhưng câu chuyện của những người Pa Cô không chất chứa sự bần cùng, u ám mà ngời lên nghị lực phi thường. Quỳnh Ngân bảo, người có uy tín là không nghe kẻ xấu, chấp hành chính sách của Nhà nước, một lòng theo Ðảng. Vợ chồng Quỳnh Ngân có ba con gái, trừ đi 11 người đã mất, người nào chào đời cũng bệnh tật, không rõ hình người, thậm chí còn chưa kịp đặt tên. "Ðau thắt ruột, nhưng người có uy tín thì phải vững vàng, làm gương cho đồng bào", Quỳnh Ngân nói, nhẹ nhàng, nhưng tôi hiểu, với người dân Ðông Sơn, những mất mát quá sức chịu đựng đến mức phải chấp nhận như một quy luật tự nhiên, bởi từ lâu, sự tồn tại của chất độc da cam là điều "bình thường" trong cuộc sống nơi đây.

Thứ đáng giá nhất trong nhà Quỳnh Ngân là con lợn giống và mấy bao ngô. Nhưng đó cũng không phải là tài sản của gia đình, Quỳnh Ngân nuôi thuê, được trả công một con khi lợn đẻ. Bà con xã Ðông Sơn vẫn giúp nhau bằng cách đó. Bóng núi phủ xuống căn nhà gỗ lưa thưa gió, lờ nhờ tranh tối tranh sáng. Quỳnh Ngân vẫn chưa bật điện. Giữa khoảng không cơ man hun hút là bức vách dán kín giấy khen của con gái họ, điều kỳ diệu trong nhà người uy tín. "Dù cực vẫn cho con học, học mới đổi đời được", Quỳnh Ngân tâm sự. Con gái đầu Ngọc Thủy, vừa tốt nghiệp THPT, nhiều năm liền là học sinh tiên tiến. "Em còn đủ hình hài", với cô bé người Pa Cô nhà nghèo, nhiễm đi-ô-xin, ngày ngày bị chứng đau đầu, nôn mửa hành hạ thì câu nói giản đơn ấy lại tiềm ẩn sức mạnh kiên cường của thế hệ trẻ A Lưới hôm nay. Em gái Ngọc Linh, năm nay vào lớp 10, chín năm liền là học sinh tiên tiến, xuất sắc, cũng bị chứng bệnh như chị, ước mơ ngày nào đó sẽ được ngồi trên giảng đường đại học. Không may mắn như chị và em, Ngọc Thư, 18 tuổi, sinh ra đã bị mù, bại não, đầu dị tật, dù vẫn nhận thức được, nhưng mỗi lúc lên cơn đau em lại gào khóc, la hét. Ngọc Thư là một trong hai nhân chứng tham gia vụ kiện chất độc da cam đối với các công ty hóa chất Mỹ tới đây.

Tối. Bà Liềng lên cơn đau đầu, nằm bẹp trong xó nhà. Ngọc Thủy tất tả chạy đi mua thuốc cho mẹ. Quỳnh Ngân bảo, cả nhà năm người đều nhiễm đi-ô-xin, ở A Lưới có hàng ngàn người như rứa!

Chứng tích chiến tranh hóa học tại sân bay A So, xã Đông Sơn (A Lưới, Thừa Thiên-Huế).

A Lưới đứng lên!

Gần 40 năm trôi qua, đất nước đã dần hàn gắn vết thương chiến tranh, nhưng ở A Lưới, có vết thương không thể hàn gắn và âm ỉ, dai dẳng khi hàng trăm con em thế hệ thứ ba cũng ra đời trong nỗi đau da cam. Chỉ tính trong hơn bốn năm, từ năm 2010 đến nay, gần 70 người đã mất liên quan đến chất đi-ô-xin, đó là theo diện chính sách. Còn hàng trăm trường hợp chết do phơi nhiễm khi định cư tại sân bay A So. Toàn huyện có hơn 4.300 người nhiễm chất độc da cam, bằng số dân của hai xã trên địa bàn gộp lại.

... Ngày thứ hai ở A Lưới. Ban mai chộn rộn nắng, bà con lục tục lên nương. Men triền sông A Sáp vào làng A Sam, nơi đế quốc Mỹ xây dựng sân bay A So năm 1961, gieo rắc thảm họa đi-ô-xin trong 10 năm lên toàn vùng. Ðầu thập niên 1990, người dân lũ lượt từ Hồng Thủy về định cư trên đất sân bay bằng phẳng, hơn một thập niên sau, các nhà khoa học công bố khu vực này nhiễm nặng đi-ô-xin, vượt 26 lần mức cho phép. Mọi chuyện đã quá muộn! Ði-ô-xin không chỉ nhiễm trong huyết quản người mà len lỏi vào máu, mỡ động vật, trong nguồn nước, cỏ cây. Giờ, quanh sân bay A So được ví như "rốn" da cam hoang tàn, chết chóc, đồng bào Tà Ôi, Pa Cô gọi đó là thung lũng patang.

Tôi đã vào thung lũng đó, chính quyền khoanh vùng nguy hiểm trong diện tích 500 ha, hàng rào bồ kết - phương pháp ngăn ngừa đi-ô-xin của GS Phùng Tửu Bôi - miên man xanh kéo dài hơn ba cây số. Lác đác nền móng bê-tông, tường nhà xiêu vẹo, đổ nát - tàn tích sau những cuộc di dân. Từng đàn trâu nhởn nhơ gặm cỏ bên hố bom ăm ắp nước, lầy nhầy váng cặn.

Trong bộn bề khó khăn và đau thương chồng chất ấy, A Lưới đã đứng lên!

Thời cả huyện chỉ có mẹ Kăm Nót ở Hồng Quảng biết trồng lúa nước qua lâu rồi, giờ bà con đều làm giỏi, cả lúa nước lẫn lúa nương. Chủ tịch UBND huyện Hồ Xuân Trăng phấn khởi cho biết, vụ đông xuân sáu tháng đầu năm gieo trồng gần 3.400 ha, sản lượng lương thực có hạt đạt hơn 9.400 tấn; còn phát triển hơn 1.300 ha cao-su, 467 ha chuối hàng hóa. Nhà nào cũng có ruộng, kết hợp chăn nuôi gia cầm, gia súc, đào ao thả cá. Kể một hồi, Chủ tịch Trăng chốt cái rột, chỉ tiêu hộ nghèo đã giảm, nhưng còn nhiều nỗi lo. Ðương nhiên rồi, nghe đồng bào nói, xem đồng bào làm, và cứ ngó cái thổ nhưỡng bạc màu, cằn cỗi xác xơ thì không lo mới lạ, "làm lãnh đạo ở mô, chứ ở A Lưới thì chắc chắn phải trăn trở gấp bội phần".

Quá ngọ, gió ngồm ngộp hơi nóng, Phó Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam huyện Trần Anh Vinh dẫn chúng tôi thăm nhà Quỳnh Nhi, người dân tộc Tà Ôi. Quỳnh Nhi được tặng giấy khen có công trong phát triển cộng đồng, từng 10 năm tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, làm Xã đội trưởng Hồng Thái và Ðông Sơn. "Huyện có dự án hỗ trợ hộ nghèo, chính sách, nhưng ưu tiên bà con trước, mình còn khỏe, còn sản xuất được", Quỳnh Nhi bảo vậy. Quỳnh Nhi có bảy người con, bốn cháu sinh ra dị dạng, đã mất; ba con trai đều đi học. "Người Tà Ôi, Pa Cô thay đổi nhận thức, cách nhìn rồi", Phó Chủ tịch Vinh cho biết. Lâu lắm, tôi mới gặp bếp lửa trong nhà người Tà Ôi, lấp lóa giữa khung cửa đen bóng, ánh lửa chờn vờn đại ngàn khiến khuôn mặt vị Phó Chủ tịch Hội như sạm lại. Người cán bộ ấy đã cống hiến tuổi xuân cho kháng chiến trường kỳ giữa mênh mông núi rừng Trường Sơn, nay xấp xỉ mốc nhân sinh thất thập, ông cũng đau đáu nỗi lòng khi có người con bị di chứng đi-ô-xin.

Nhà của Quỳnh Nhi cách nhà Quỳnh Thia khoảnh ruộng nhỏ, ngó sang chạm mặt. Gia đình Quỳnh Thia có ao cá nước trong veo rộng gần bốn chục mét vuông, kế bên lúa nương xanh rì lúp xúp, đồi rộng thênh thang lô nhô ngô, sắn. Quỳnh Thia sinh năm 1942, nặng tai, nghe câu được câu chăng, vợ là Kăn Thia chưa rành tiếng phổ thông, may, con dâu Hồ Thị Thiệm của Quỳnh Thia làm cán bộ văn hóa xã. Hồ Thiệm là "của hiếm" ở Ðông Sơn, được tỉnh "cử" ra Hà Nội học Trường đại học Văn hóa, về phục vụ địa phương. "Chồng Thiệm làm gì, học lớp mấy?", tôi hỏi. "Làm công an thôn đó, lớp 8 chứ mấy, bén duyên thương nhau thì lấy thôi", Thiệm nói. Hồ Văn Thia là con trai độc nhất của Quỳnh Thia, trên Thia có một chị, còn lại bốn em. Kăn Thia sinh được 12 người con, chết một nửa vì nhiễm đi-ô-xin. Xưa, vợ chồng họ đều là bộ đội. Thiệm kể về cô em chồng thứ năm, tên Hồ Thị Thưi, từ nhỏ đã mù, nhưng ham học, nên đi học chữ Braille (chữ nổi), học văn hóa ở TP Huế. Gia đình phải thuê xe máy chở bé ra thị trấn, rồi tự bắt xe đò mày mò đến lớp. Biết cái chữ, Thưi tiếp tục học nghề mát-xa do Trung tâm Y tế tỉnh đào tạo. Tại đây, cuộc đời đã mỉm cười với Thưi khi gặp chàng trai Cao Như Ý, quê Bình Ðịnh, cũng bị mù và cùng nghị lực vượt khó như Thưi. Họ kết hôn, về Bình Ðịnh mở tiệm mát-xa và có một cháu trai kháu khỉnh. Tôi chỉ nghe kể về Thưi, nhìn ảnh Thưi hồi nhỏ trên một tạp chí nước ngoài, nhưng tôi biết, nơi phương xa ấy, cô bé Hồ Thị Thưi ngày nào đen đúa loắt choắt, tự mình vượt núi rừng hơn 80 km về thành phố, đã tìm được hạnh phúc cho mình.

Tà dương gác non tây, về tỉnh qua cung đường 49 treo bên vực sâu hun hút, A Lưới lòa nhòa ánh điện, loáng thoáng sau những vạt rừng tím thẫm. Ðâu đó, tôi từng đọc, mấy câu thơ: Phố mỏng chưa thành dáng phố/CơHo cùng với Vân Kiều/Ngược xuôi đan cài mới cũ/Lơ lớ giọng Kinh đáng yêu.

Theo kết quả nghiên cứu của Ban khắc phục hậu quả chất độc hóa học sử dụng trong chiến tranh (UB10-80): Từ năm 1961 đến 1971, huyện A Lưới hứng chịu hơn 432.000 lít thuốc diệt cỏ, tương đương 11kg đi-ô-xin.

Thuốc diệt cỏ được sản xuất theo quy trình công nghệ nghiêm ngặt để loại tạp chất đi-ô-xin, thời gian phản ứng hóa học từ 12 đến 13 giờ. Vì muốn có nhiều sản phẩm bán ra, các công ty hóa chất Mỹ đã tăng nhiệt độ lên 277,70C, rút ngắn thời gian phản ứng xuống còn tám phút, khiến hàm lượng đi-ô-xin cao hơn hàng chục lần so với ngưỡng an toàn. Theo Bộ Quốc phòng Mỹ, các công ty này đã bán một lượng hóa chất chứa 170 kg đi-ô-xin để sử dụng trong cuộc chiến tranh hóa học ở miền Nam Việt Nam. Về mặt lý thuyết, chỉ cần một thìa cà-phê đi-ô-xin có thể gây chết chóc cho một thành phố có tám triệu dân.

Theo http://www.nhandan.org.vn
Các tin khác
Xem tin theo ngày  

                                                        

Thống kê truy cập
Truy câp tổng 29.298.853
Truy câp hiện tại 15.894