Ngày 19/6/2015, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII với tỷ lệ phiếu tán thành là 85,22% đã thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương (Luật 2015). Luật này đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 và các chủ trương, định hướng của Đảng về chính quyền địa phương; đồng thời kế thừa những nội dung hợp lý và sửa đổi, bổ sung các bất cập, vướng mắc trong 12 năm thực hiện Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 (gọi là Luật 2003). Luật gồm 8 chương và 143 điều, tăng 2 chương và 3 điều so với Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016.
Dưới đây là 10 điểm mới nổi bật của Luật Tổ chức chính quyền địa phương:
Thứ nhất, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương có 8 chương, 143 điều, tăng 2 chương 3 điều so với Luật Tổ chức HĐND và UBND 2003.
Chương 1: Những quy định chung, gồm 15 điều, từ điều 1 đến điều 15
Chương 2: Chính quyền địa phương ở nông thôn, có 21 điều, từ điều 16 đến điều 36
Chương 3: Chính quyền địa phương ở đô thị, có 35 điều, từ điều 37 đến điều 71
Chương 4: Chính quyền địa phương ở hải đảo. có 2 điều, từ điều 72 đến điều 73
Chương 5: Chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt, có 4 điều, từ điều 74 đến điều 77
Trong các chương trên, từ chương 2 đến chương 5 trình bày cơ bản theo cấu trúc:
- Chính quyền địa phương theo đơn vị hành chính
- Nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP
- Cơ cấu tổ chức của HĐND
- Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND
- Cơ cấu, tổ chức của UBND
- Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND
- Nhiệm vụ, quyền hạn của chủ tịch UBND
Chương 6: Hoạt động của chính quyền địa phương. Chương này có 50 điều từ điều 78 đến điều 127. Đây là chương dài nhất vì trong đó quy định hoạt động của HĐND, UBND, các Ban của HĐND, các cơ quan chuyên môn của UBND, trụ sở, kinh phí, bộ máy giúp việc của chính quyền địa phương.
Chương 7: Thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính. Có 12 điều từ điều 128 đến điều 139.
Chương 8: Điều khoản thi hành, có 4 điều, từ điều 140 đến điều 143.
Thứ hai, về đơn vị hành chính: Luật Tổ chức chính quyền địa phương xác định các đơn vị hành chính gồm có tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương; xã, phường, thị trấn và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Như vậy, so với Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã bổ sung thêm đơn vị hành chính: Thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Đây là quy định nhằm cụ thể hóa Điều 110 Hiến pháp năm 2013.
(Đơn vị Hành chính kinh tế đặc biệt thường khác với đơn vị hành chính thông thường về: Diện tích, dân số, trình độ phát triển kinh tế xã hội, tổ chức và thẩm quyền của cơ quan quản lý là đa dạng… và phù hợp với đặc điểm từng đơn vị đó. Đơn vị Hành chính kinh tế đặc biệt được tổ chức cho phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của mỗi đơn vị và có xu hướng theo hai mục đích sau: (1) khai thác tốt lợi thế tiềm năng phát triển của đơn vị đó hoặc (2) phục vụ mục đích chủ quan của nhà quản lý muốn thúc đẩy một khu vực kém phát triển).
Thứ ba, về tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính: Điều 4 Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định cấp chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính gồm có HĐND và UBND. Chính quyền địa phương ở nông thôn gồm chính quyền địa phương ở tỉnh, huyện, xã. Chính quyền địa phương ở đô thị gồm chính quyền địa phương ở thành phố trực thuộc trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phường, thị trấn.
Như vậy, sau một thời gian dài thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội, Nghị quyết số 724/2009/UBTVQH12 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã quy định cấp chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính đều phải có HĐND và UBND. Ngoài ra, một trong những điểm mới nổi bật của Luật Tổ chức chính quyền địa phương so với Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đó là có sự phân biệt giữa chính quyền địa phương ở nông thôn và ở đô thị, phù hợp với đặc điểm kinh tế, địa lý, dân cư, kết cấu hạ tầng và yêu cầu quản lý ở mỗi địa bàn.
Thứ tư, về nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương:
- Đối với HĐND các cấp: Luật quy định rõ hơn về cơ cấu tổ chức của HĐND, tạo cơ sở pháp lý để củng cố, hoàn thiện tổ chức và năng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND. Cụ thể:
+ Quy định tiêu chuẩn, số lượng đại biểu HĐND các cấp, số lượng đại biểu HĐND căn cứ theo số lượng dân cư và các vùng, miền… theo hướng tăng số lượng đại biểu HĐND ở đơn vị hành chính thị xã. Luật cũng quy định số lượng đại biểu HĐND của thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là 105 đại biểu (trước đây 95 đại biểu) để phù hợp với quy mô dân số, đặc điểm tính chất của các đô thị này.
+ Quy định HĐND thành phố trực thuộc trung ương được thành lập thêm Ban đô thị (trước có 3 Ban: Pháp chế, văn hoá - xã hội, kinh tế - ngân sách), vì đây là những đô thị tập trung, có quy mô lớn, mức độ đô thị hoá cao và có nhiều điểm đặc thù khác với các địa bàn đô thị thành phố thuộc tỉnh.
+ Quy định HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, nơi nào có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số thì thành lập Ban dân tộc. Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định tiêu chuẩn, điều kiện thành lập Ban dân tộc theo quy định của Luật này.
+ Quy định về chức danh chủ tịch, phó chủ tịch HĐND các cấp và số lượng phó chủ tịch HĐND các cấp. Theo đó, HĐND cấp tỉnh có chủ tịch, 2 phó chủ tịch (trước có 1 phó chủ tịch). HĐND cấp xã có chủ tịch, phó chủ tịch. Bỏ chức danh Ủy viên thường trực ở HĐND cấp tỉnh, cấp huyện.
+ Quy định về thường trực HĐND: Ở cấp tỉnh gồm có chủ tịch, 2 phó chủ tịch và các uỷ viên là các trưởng các Ban của HĐND và chánh văn phòng HĐND; ở cấp huyện có chủ tịch, 2 phó chủ tịch và các uỷ viên là các uỷ viên là các trưởng Ban HĐND; ở cấp xã có chủ tịch và phó chủ tịch HĐND.
+ Quy định về chế độ chuyên trách của chủ tịch HĐND, phó chủ tịch HĐND và truỏng Ban của HĐND các cấp, theo đó: Chủ tịch HĐND cấp tỉnh, cấp huyện có thể là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách; phó chủ tịch HĐND cấp tỉnh, cấp huyện là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách; ở cấp xã phó chủ tịch HĐND hoạt động chuyên trách, trưởng Ban HĐND cấp tỉnh, cấp huyện có thể hoạt động chuyên trách (Luật 2003 là kiêm nhiệm), phó trưởng Ban HĐND cấp tỉnh, cấp huyện hoạt động chuyên trách (Luật 2003 chỉ có Phó trưởng ban HĐND tỉnh là chuyên trách). Trưởng, phó Ban HĐND cấp xã hoạt động kiêm nhiệm.
+ Quy định tăng cường vai trò của cơ quan thường trực của HĐND, quy định rõ Thường trực HĐND họp định kỳ tháng 1 lần.
- Đối với UBND: Về cơ cấu tổ chức của UBND, nếu như trước đây, theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, không phải người đứng đầu của các cơ quan chuyên môn của UBND nào cũng là ủy viên của UBND thì đến Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã mở rộng cơ cấu tổ chức UBND theo đó tất cả người đứng đầu của các cơ quan chuyên môn của UBND đều là ủy viên của UBND. Quy định thành viên UBND cấp xã gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên là Chỉ huy trưởng Quân sự, Trưởng Công an.
Đây là quy định nhằm phát huy trí tuệ tập thể của các thành viên UBND, tăng cường hiệu lực giám sát của HĐND đối với UBND cùng cấp thông qua cơ chế lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu.
Phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể UBND và chủ tịch UBND theo hướng đề cao trách nhiệm của chủ tịch UBND trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình và trong việc điều động, đình chỉ chức vụ đối với chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp và chỉ định các chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp.
Về số lượng Phó Chủ tịch UBND các cấp được quy định theo phân loại đơn vị hành chính, theo đó đối với đơn vị hành chính cấp tỉnh loại đặc biệt (Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) có không quá 05 Phó Chủ tịch, loại I có không quá 04 Phó Chủ tịch, loại II và loại III có không quá 03 Phó Chủ tịch. Đối với đơn vị hành chính cấp huyện loại I có không quá 03 Phó Chủ tịch, loại II và loại III có không quá 02 Phó Chủ tịch.
- Đối với đơn vị hành chính cấp xã loại I có không quá 02 Phó Chủ tịch, loại II và loại III có 01 Phó Chủ tịch. Ngoài ra, Luật còn bổ sung Điều 124 quy định về việc điều động, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cho phù hợp với quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ.
Thứ năm, về việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính: Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định khi có trên 50% tổng số cử tri trên địa bàn đồng ý với đề án thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính thì cơ quan xây dựng đề án mới được hoàn thiện đề án, trình HĐND các cấp thông qua chủ trương. Luật còn bổ sung quy định về thẩm quyền đặt tên, đổi tên đơn vị hành chính và giải quyết tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính giữa các đơn vị hành chính.
Theo đó, Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính cấp tỉnh; đặt tên, đổi tên đơn vị hành chính cấp tỉnh; giải quyết tranh chấp liên quan đến địa giới đơn vị hành chính cấp tỉnh. Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; đặt tên, đổi tên đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; giải quyết tranh chấp liên quan đến địa giới đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã.
Thứ sáu, về tiêu chí, tiêu chuẩn thành lập Ban dân tộc của Hội đồng nhân dân là vấn đề rất cụ thể, liên quan đến việc bảo đảm thực hiện chính sách dân tộc chung của cả nước cũng như ở từng địa phương nơi có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, cần phải được tiếp tục xem xét, cân nhắc kỹ thêm. Do đó, để có thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng, luật quy định Quốc hội giao Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định cụ thể tiêu chí, tiêu chuẩn thành lập Ban dân tộc của Hội đồng nhân dân
Thứ bảy , phân định thẩm quyền giữa trung ương, địa phương và giữa các cấp chính quyền.
Một trong những điểm mới của luật là phân định thẩm quyền giữa trung ương, địa phương và giữa các cấp chính quyền nhằm cụ thể hóa Điều 112 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, để tạo cơ sở pháp lý cho việc phân quyền, phân cấp, ủy quyền cho chính quyền địa phương, Luật năm 2015 đã quy định các nguyên tắc phân định thẩm quyền, các trường hợp phân quyền, phân cấp, ủy quyền.
Cụ thể, có 6 nguyên tắc về phân định thẩm quyền gồm: Bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất về thể chế, chính sách, chiến lược và quy hoạch đối với các ngành, lĩnh vực; bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của nền hành chính quốc gia. Phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương. Kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ, phân định rõ nhiệm vụ quản lý nhà nước giữa chính quyền địa phương các cấp đối với các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ. Việc phân định thẩm quyền phải phù hợp điều kiện, đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo và đặc thù của các ngành, lĩnh vực. Công việc liên quan đến phạm vi từ hai đơn vị hành chính cùng cấp trở lên thì thuộc thẩm quyền giải quyết của chính quyền cấp trên, trừ trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ có quy định khác. Nguyên tắc cuối cùng là chính quyền địa phương được bảo đảm nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân quyền, phân cấp.
Về phân quyền, Luật quy định việc phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương phải được quy định trong các luật; chính quyền địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền. Về phân cấp, Luật quy định căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình cụ thể khác của địa phương, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Việc phân cấp phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước thực hiện phân cấp.
Về ủy quyền, Luật quy định trong trường hợp cần thiết, cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có thể ủy quyền bằng văn bản do UBND cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể.
Thứ tám, quy định nhiệm vụ, quyền hạn đặc trưng của chính quyền đô thị.
Luật đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính theo hướng chủ yếu tập trung ở cấp tỉnh, giảm dần xuống cấp huyện đến cấp xã để tránh tình trạng dồn việc về cấp cơ sở mà không tính đến khả năng đáp ứng của từng cấp chính quyền; nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở địa bàn nông thôn tập trung thực hiện quản lý theo lãnh thổ; ở địa phương đô thị chú trọng thực hiện quản lý theo ngành, lĩnh vực.
Luật quy định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương phải thực hiện như tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn; quyết định những vấn đề của địa phương trong phạm vi được phân quyền, phân cấp; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ủy quyền...
Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND trên các lĩnh vực nhằm thể hiện rõ sự gắn kết chặt chẽ, thống nhất giữa hai thiết chế HĐND và UBND hợp thành chính quyền địa phương.
Đặc biệt, luật đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn đặc trưng của chính quyền đô thị nhằm thể hiện sự khác biệt với chính quyền nông thôn. Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở thành phố, thị xã ngoài việc quyết định các vấn đề của địa phương như đối với địa bàn nông thôn, còn tập trung quyết định các vấn đề quy hoạch phát triển đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, quản lý và tổ chức đời sống dân cư đô thị...
Bên cạnh đó, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương quận và phường đã được điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu quản lý thống nhất, liên thông trong khu vực nội thành, nội thị tại các đô thị. Cụ thể, ngoài việc thực hiện chức năng đại diện và giám sát theo quy định chung, tập trung thực hiện 2 nhóm nhiệm vụ liên quan đến việc quyết định các vấn đề ở địa phương gồm: thông qua ngân sách quận, phường theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và bầu nhân sự của HĐND, UBND cùng cấp.